Lịch sử Bản_Nguyên

Nguyên xưa nơi đây có tên chiềng (chạ?) Bãi Á(稏 地- Bãi Lúa) hay trang Bãi Á. Thời |Hậu Lê, đổi chiềng, chạ thành xã. Thời Minh Mạng (1824), hướng Hán Việt, đổi thành xã Á Nguyên (稏 原- Đồng Lúa), năm 1832 đổi tiếp thành Bản Nguyên (本原- Gốc Đồng Bằng, Cánh Đồng Gốc (của đồng bằng Bắc bộ)). Từ năm 1946 đến 1964, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đổi tên thành xã Hùng Tiến. Sau năm 1964, sử dụng lại tên xã Bản Nguyên.

Thần tích trang Bãi Á[2] (ứng với phần đất Bản nguyên cổ) viết, "Tương truyền, (sau khi đánh đuổi quân Thục Phán), …, Hùng Duệ vương sắc phong Ba vị Phúc thần (Tam vị Đại vương, cùng hợp sức với Tản Viên Sơn Thánh) là: Tá Lang linh ứng Đại vương[3], Đương Cương hiển ứng Đại vương[4] và Hương Thụy hiển ứng Đại vương[5] Đặc biệt Quốc Tổ ban tặng 15 chữ vàng quý hiếm: 三 位 濟 世 護 國 保 境 顯 佑大王上 等 神, (Tam vị tế thế hộ quốc bảo cảnh hiển hựu Đại vương thượng đẳng thần). Từ đó, làng có mỹ tục kiêng 6 âm húy thánh[6]: tá, lang, đương, cương, hương, thụy[7].

Nối tục các thời Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê Thái tổ sắc phong…". Trong dân cư, củ khoai lang phải gọi là củ muống, đương chức nói là đang chức, thắp hương nói là thắp nhang...; Con dân không lấy tên trùng với 6 âm húy[8].